Có thể cải thiện hệ vi sinh vật trong thủy sản bằng cách áp dụng các sản phẩm thương mại không?
Tiến sĩ Newman đưa ra quan điểm về việc quản lý vi sinh vật, khi chúng được đưa vào các hệ thống nuôi trồng thủy sản.
Lịch sử hệ vi sinh vật
Vi sinh vật thực sự không tồn tại trước công trình của Antonie van Leeuwenhoek, người đã phát minh ra kính hiển vi thực tế đầu tiên vào cuối thế kỷ 17. Ông được nhiều người ghi nhận là cha đẻ của ngành vi sinh vật học và công trình nổi tiếng của ông vào năm 1674 liên quan đến việc phát hiện các sinh vật đơn bào đã đặt nền móng cho việc khám phá ra các vi sinh vật. Mãi đến 161 năm trước, 1860, khi Louis Pasteur (nhà hóa học và vi sinh học người Pháp, người khám phá ra các nguyên tắc tiêm chủng, lên men vi sinh vật và thanh trùng) đã phát triển các phương tiện nhân tạo, thì những vi khuẩn đầu tiên mới có thể phát triển. Và phải đến năm 1928, khi Alexander Fleming (bác sĩ kiêm nhà vi sinh vật học người Scotland) phát hiện ra loại kháng sinh thực sự đầu tiên mà ông gọi là penicillin, thì khoa học vi sinh vật mới bắt đầu có sự tăng tốc.
Đến 1928 thì khoa học vi sinh vật mới bắt đầu có sự tăng tốc. Ảnh: Normagut
Việc phân lập, xác định đặc điểm và khả năng phát triển của các vi sinh vật trong nhiều nguồn thực phẩm khác nhau giúp các nhà vi sinh vật học dễ dàng tiếp cận và khám phá ra được sự phức tạp của vi sinh vật. Mặc dù Joshua Lederberg (nhà sinh học phân tử người Mỹ nghiên cứu về di truyền vi sinh vật, trí tuệ nhân tạo và chương trình vũ trụ Hoa Kỳ; đã đoạt giải Nobel 1958) được công nhận là người đã đặt ra thuật ngữ microbiome vào năm 2001. Tuy nhiên, định nghĩa của nó vẫn còn rất hạn chế. Thuật ngữ microbiome trong trường hợp nuôi trồng thủy sản có thể định nghĩa là tất cả các vi sinh vật trong lớp trầm tích dưới đáy ao, và các vi sinh vật có mặt trong cơ thể của động vật thủy sản, chẳng hạn như đường ruột.
Quần xã vi sinh vật rất phức tạp và thay đổi liên tục
Chỉ có thể phân lập một phần rất nhỏ trong tổng số vi khuẩn, bằng cách nuôi cấy. Do yêu cầu môi trường tăng trưởng của chúng đòi hỏi rất cao và chúng ta chỉ mới biết rằng chúng có mặt nhờ axit ribonucleic và RNA. Nên có thể khẳng định chắc chắn rằng hệ vi sinh vật không phải là một hằng số, nó liên tục thay đổi và phát triển. Thực tế là hiện nay chúng ta còn chưa biết đến 99,99 % vi khuẩn hiện diện, và chúng thực hiện chức năng gì, số lượng của chúng thay đổi như thế nào và nhiều yếu tố khác nữa. Mặc dù vẫn có thể quan sát những thay đổi của hệ vi sinh vật, nhưng điều này không dễ được thực hiện trong các điều kiện thực tế. Cho nên vẫn còn rất nhiều điều để tìm hiểu về quần xã vi sinh vật và những tiềm năng vốn có của chúng.
Hệ vi sinh vật trong NTTS
Phải hiểu thực sự cơ chế và các kết quả thực nghiệm khi sử dụng hỗn hợp vi sinh bổ sung, thì hỗn hợp đó mới có giá trị. Nên việc đưa ra các lý thuyết được nghiên cứu trong bể cá, phòng thí nghiệm thì không cho phép kết luận rằng: Sản phẩm nào đó sẽ hoạt động trên thực địa theo một cách tương tự. Có thể là an toàn khi ngành thủy sản ngày càng có nhiều sản phẩm thương mại tuyên bố làm thay đổi hệ vi sinh vật theo hướng có lợi cho tôm và cá nuôi. Tỷ lệ các báo cáo đang tăng lên đáng kể với những tuyên bố kỳ diệu về tác động của “mọi thứ” lên hệ vi sinh vật.
Các báo cáo đang tăng lên đáng kể với những tuyên bố kỳ diệu về tác động của “mọi thứ” lên hệ vi sinh vật. Ảnh: Hakai Magazine.
Nhưng thực tế không có công thức nào kỳ diệu cả. Vật nuôi bệnh là hậu quả của các yếu tố gây căng thẳng, kém an toàn sinh học, những hạn chế đối với sức khỏe vật nuôi bởi môi trường, cùng nhiều yếu tố khác. Trong một môi trường sản xuất, nơi có nhiều biến số dễ dàng bị thay đổi. Cần cân nhắc khi tuyên bố rằng một cách tiếp cận nhất định sẽ thay đổi vĩnh viễn cả một hệ vi sinh vật theo cách đảm bảo sức khỏe vật nuôi tốt hơn.
Đã có nhiều tiến bộ trong việc cải thiện môi trường ở các hệ thống nuôi trồng thủy sản (bể và ao). Những tiến bộ này cũng sẽ tác động đến các môi trường sản xuất khác, chẳng hạn như trại giống, vườn ươm, hệ thống RAS, biofloc và các môi trường khác. Từ đó sẽ có khả năng sẽ kiểm soát thành phần vi khuẩn trong những môi trường này theo các thông số kỹ thuật. Điều này sẽ mang lại một kỷ nguyên mới trong ngành nuôi tôm, cá, và dịch bệnh sẽ chỉ là quá khứ.
Quan điểm cá nhân
Tiến sĩ cho biết một sự thật đáng tiếc là những người trực tiếp nuôi trồng thủy sản lại ít được học hành chính quy. Nhưng họ lại luôn hy vọng sẽ gặt hái được những vụ nuôi thành công một cách liên tục. Và các nhân viên bán hàng thì liên tục liên hệ với họ để cung cấp những sản phẩm giúp giải quyết “tất cả vấn đề” của họ. Một ví dụ điển hình là thuật ngữ Probiotic thì không hề có nghĩa là bất kì vi khuẩn nào cũng có thể được sử dụng theo bất kỳ cách nào, cho bất kỳ loài thủy sản nào. Việc sử dụng vi khuẩn sống qua đường tiêu hóa của vật nuôi sẽ tốt hơn, do ảnh hưởng tích cực đến hệ vi sinh vật. Mong rằng việc thay đổi hệ vi sinh vật cho động vật thủy sản sẽ theo một cách nhất quán, thật sự tập trung cải thiện sức khỏe vật nuôi.
Reference: Dr. Stephen G. Newman, What is a microbiome and can we really improve it by applying commercial products?, Aquaculture (2021).
Nguồn: Tepbac.com